Rủi ro tiềm ẩn của phẫu thuật giảm cân: Xương bị yếu đi ở thanh thiếu niên và thanh niên

05/07/2023
Một nghiên cứu mới được công bố trên Tạp chí Radiology đã chỉ ra rằng một cuộc phẫu thuật giảm cân phổ biến (phẫu thuật cắt vạt dạ dày - sleeve gastrectomy) có các ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của xương ở thanh thiếu niên và thanh niên. Hai năm sau phẫu thuật, mặc dù chỉ số BMI (Body Mass Index là chỉ số khối cơ thể) của bệnh nhân giảm đáng kể nhưng lượng chất béo tủy xương lại tăng lên, mật độ và sức mạnh của xương giảm. Nghiên cứu nhấn mạnh sự cần thiết phải theo dõi và quản lý sức khỏe của xương sau phẫu thuật, cũng như thông tin về các liệu pháp mới tiềm năng.

Theo một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Radiology, một tạp chí của hiệp hội  Radiological Society of North America (RSNA), thì một cuộc phẫu thuật giảm cân phổ biến dành cho thanh thiếu niên và thanh niên béo phì được phát hiện là có tác hại đối với xương.

Trưởng nhóm nghiên cứu, Miriam A. Bredella, một Giáo sư ngành X quang tại Trường Y Harvard ở Boston, Massachusetts, cho biết: “Béo phì ở trẻ em đang gia tăng và phẫu thuật giảm cân là cách hiệu quả nhất để giảm cân và cải thiện các bệnh tim mạch chuyển hóa đi kèm. Đây là nghiên cứu đầu tiên ở thanh thiếu niên và thanh niên kiểm tra các ảnh hưởng lâu dài của phẫu thuật cắt vạt dạ dày (là loại phẫu thuật giảm cân phổ biến nhất) đối với sức khỏe của xương và lượng chất béo trong tủy xương.”

Phẫu thuật cắt vạt dạ dày (Sleeve gastrectomy) cắt bỏ đi khoảng 75% đến 80% dạ dày để hạn chế lượng thức ăn được ăn vào và giúp giảm cân. Kết quả là một dạ dày tròn điển hình sau khi cắt bỏ sẽ có hình dạng của một cái ống hoặc ống tay áo. Theo Hiệp hội Phẫu thuật chuyển hóa và giảm béo Hoa Kỳ, số lượng ước tính các thủ thuật cắt vạt dạ dày được thực hiện mỗi năm đã tăng từ hơn 28.000 ca phẫu thuật vào năm 2011 lên hơn 122.000 ca vào năm 2020. Phẫu thuật cắt vạt dạ dày đã vượt qua phẫu thuật nối tắt dạ dày (Gastric bypass - là hoạt động giảm cân cơ bản, phương pháp tạo ra một túi dạ dày nhỏ hơn và sau đó được nối với ruột non giúp bệnh nhân có cảm giác mau no hơn và giảm hấp thụ chất khoáng).  

Trong nghiên cứu, những người tham gia trong độ tuổi từ 13 đến 24 đã được ghi lại danh sách từ năm 2015 đến năm 2020. Các thanh thiếu niên và thanh niên mắc bệnh béo phì từ trung bình đến nặng. Những người trẻ tuổi có chỉ số cơ thể tối đa (BMI) từ 35 trở lên. Chỉ số BMI từ 30 trở lên được coi là béo phì.

Có 54 người tham gia, 25 người đã trải qua phẫu thuật cắt vạt dạ dày và 29 người trong nhóm đối chứng. 41 người tham gia trong nghiên cứu là nữ. Nhóm phẫu thuật bao gồm những người tham gia có ít nhất một bệnh đồng mắc liên quan đến béo phì hoặc có chỉ số BMI từ mức 40 trở lên. Nhóm đối chứng bị béo phì nhưng không có kế hoạch cắt vạt dạ dày nhưng được tư vấn về chế độ ăn uống và tập thể dục.

Ảnh: Phân tích CT không thuốc cản quang cơ sinh học của đốt sống L1 ở một phụ nữ 18 tuổi bị béo phì nặng (chỉ số khối cơ thể BMI, 48,4 kg/m2) trước khi phẫu thuật cắt vạt dạ dày (SG) và 24 tháng sau phẫu thuật (chỉ số khối cơ thể BMI, 26,6 kg/m2). Đốt sống L1 được tải tới 9820 N ở cả hai lần thăm khám nhằm mục đích so sánh. Sức mạnh phá vỡ là (A) 11 920 N ở mức cơ bản trước SG và (B) 9820 N sau 24 tháng sau phẫu thuật. Hình cắt bỏ của các mô hình phần tử hữu hạn dưới tải trọng nén mô tả sự phân bố mật độ khoáng của xương (vùng đen và trắng) và tình trạng hỏng xương (vùng màu). Màu đỏ biểu thị mô bị hỏng sớm hơn trong suốt quá trình tải trọng nén (xương yếu hơn). Hình màu xám biểu thị mật độ xương khác nhau, với màu trắng là xương đặc và màu đen là ít hoặc không có khoáng chất xương.

Trước và 24 tháng sau khi cắt bỏ dạ dày, những người tham gia đã trải qua một cuộc kiểm tra thể chất, xét nghiệm máu và chụp CT định lượng cột sống thắt lưng, để định lượng mật độ khoáng xương thể tích và thực hiện phân tích phần tử hữu hạn, một kỹ thuật có thể ước tính độ chắc khỏe của xương. CT định lượng là một kỹ thuật có độ chính xác cao để phát hiện những thay đổi về mật độ khoáng của xương sau khi giảm cân quá nhiều.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất béo trong tủy xương phản ứng với những thay đổi về dinh dưỡng và có thể đóng vai trò là dấu ấn sinh học cho chất lượng xương. Do đó, bệnh nhân được chụp quang phổ cộng hưởng từ proton để định lượng mỡ tủy xương cột sống thắt lưng.

Hai năm sau phẫu thuật, chỉ số BMI ở thanh thiếu niên và thanh niên giảm (trung bình -11,9), trong khi chỉ số BMI tăng nhẹ ở nhóm đối chứng (trung bình +1,5). So với nhóm chứng, bệnh nhân cắt vạt dạ dày có lượng mỡ trong tủy xương tăng đáng kể, và giảm mật độ cũng như sức mạnh của xương ước tính ở vùng cột sống thắt lưng.

Tiến sĩ Bredella cho biết: “Chúng tôi thấy rằng độ khỏe của xương thấp hơn sau hai năm phẫu thuật giảm cân, trong khi chất béo trong tủy xương lại tăng lên (một dấu hiệu cho thấy xương yếu đi), điều này cho thấy rằng phẫu thuật giảm cân có tác động tiêu cực đến sức khỏe của xương”.

Tiến sĩ Bredella chỉ ra rằng tuổi thanh thiếu niên là thời điểm quan trọng để xây dựng khối lượng xương và sự thiếu hụt trong việc tích lũy xương trong những năm này có thể có tác động lâu dài đến sức khỏe của xương và nguy cơ gãy xương ở nhóm dân số trẻ này trong cuộc đời sau này.

“Khi phẫu thuật giảm béo ở thanh thiếu niên ngày càng tăng, ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe của xương càng cần được nhấn mạnh, đặc biệt là đối với các bác sĩ, những người sẽ tiếp tục chăm sóc y tế định kỳ cho những bệnh nhân này. Chúng tôi hy vọng rằng nghiên cứu của chúng tôi sẽ giúp nâng cao nhận thức về các ảnh hưởng của phẫu thuật giảm cân đối với xương ở thanh thiếu niên mắc bệnh béo phì”, Tiến sĩ Bredella nói.

Tiến sĩ Bredella nhấn mạnh: “Việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của sức khỏe xương sẽ cho phép theo dõi và quản lý khối lượng xương thấp, bổ sung chế độ ăn uống tối ưu với vitamin D và canxi, và bắt đầu liệu pháp thích hợp nếu cần. Những ảnh hưởng của phẫu thuật giảm cân đối với sức khỏe của xương và chất béo trong tủy xương cũng có thể góp phần xác định các mục tiêu mới cho các liệu pháp mới.”

Nguồn tin: https://scitechdaily.com

Xử lý tin: Minh Tâm



Tags:
Tin liên quan