Nghiên cứu chế tạo và ứng dụng vật liệu cao su blend tính năng cao trong lĩnh vực hàng hải và thủy lợi

27/08/2011
Từ vài chục năm trở lại đây, vật liệu cao su blend được nghiên cứu và ứng dụng ngày càng nhiều trong hầu khắp các lĩnh vực kinh tế kỹ thuật. Trong đó, được ứng dụng nhiều nhất trước hết phải kể đến các loại vật liệu cao su blend trên cơ sở cao su thiên nhiên (CSTN) với một số cao su tổng hợp hay một số nhựa nhiệt dẻo, thông qua đó đã góp phần nâng cao tính năng cơ lý, kỹ thuật, mở rộng phạm vi ứng dụng cho CSTN. Tuy nhiên, loại vật liệu này có những hạn chế nhất định như kém bền dầu mỡ, môi trường và do vậy ảnh hưởng tới khả năng ứng dụng của nó. Chính vì vậy, để chế tạo các sản phẩm cao su dùng cho các lĩnh vực kỹ thuật cao người ta thường dùng các loại cao su tổng hợp có những tính năng đặc biệt phù hợp với ứng dụng cụ thể hay blend của các loại cao su, nhựa tổng hợp như blend của cao su nitril butadien (NBR) với nhựa polyvinylclorua (PVC) có khả năng bền dầu mỡ, môi trường và bền chống cháy hay vật liệu blend của NBR với cao su clopren (CR)...

Ở Việt Nam, trong những năm qua có nhiều công trình nghiên cứu chế tạo và ứng dụng các loại cao su blend đã mang lại những hiệu quả khoa học, kinh tế và xã hội đáng kể. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào CSTN (loại polyme thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam), do vậy mới chỉ tạo ra được những vật liệu cao su blend có những tính năng cơ lý kỹ thuật chưa thật cao. Trong khi đó, để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, kỹ thuật của đất nước hiện nay, hàng năm nước ta phải nhập hàng trăm tấn sản phẩm cao su kỹ thuật phục vụ các ngành công nghiệp chế tạo máy, khai thác dầu khí, đóng tàu, kỹ thuật điện, giao thông vận tải, quốc phòng… với giá trị hàng trăm tỷ đồng. Xuất phát từ thực tế trên, gần đây các sản phẩm cao su có tính năng cao, bền dầu mỡ và môi trường thời tiết ứng dụng để chế tạo các sản phẩm công nghệ cao đã bắt đầu được nghiên cứu. Trong chương trình hợp tác với các địa phương, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã phê duyệt đề tài “Nghiên cứu chế tạo và ứng dụng vật liệu cao su blend tính năng cao trong một số lĩnh vực kinh tế trọng điểm của Hải Phòng” do Viện Hóa học phối hợp với Công ty cổ phần Cao su-Nhựa Hải Phòng thực hiện.

Đề tài được triển khai với mục đích nghiên cứu, chế tạo và ứng dụng các vật liệu cao su blend có tính năng cơ lý, kỹ thuật cao, đáp ứng yêu cầu chế tạo một số sản phẩm cao su kỹ thuật cho ngành giao thông đường thủy, xây dựng cảng, đóng tàu như đệm chống va cầu cảng cao cấp, ống nạo vét chất lượng cao, các loại doăng đệm phục vụ công nghiệp đóng tàu...

Sau hai năm thực hiện, tập thể nghiên cứu đã chế tạo thành công vật liệu cao su blend hai cấu tử trên cơ sở CSTN với polyetylen tỷ trọng thấp (LDPE), các chất độn sẵn có, và các loại vật liệu cao su blend ba cấu tử trên cơ sở NBR, PVC với CSTN và NBR, CR với PVC. Các loại vật liệu này có các tính năng cơ lý, kỹ thuật cao, đáp ứng yêu cầu sử dụng, đặc biệt là bền dầu mỡ và môi trường, với giá thành thấp.

Đó là cơ sở để các nhà khoa học tiếp tục xây dựng quy trình công nghệ chế tạo một số sản phẩm cao su kỹ thuật cho ngành giao thông đường thủy, xây dựng cầu cảng và đóng tàu. Kết quả đề tài đã sản xuất và cung cấp cho các đơn vị một số sản phẩm đệm chống va đập tàu biển cao cấp CSS, đệm chống va đập tàu biển Pi-600H; doăng cửa tàu thủy, doăng máy điều khiển ngư lôi và một số ống mềm cao su chịu áp lực chất lượng cao cho tàu nạo vét sông, biển.


Sản phẩm đệm chống va tàu biển CSS được ứng dụng
tại Cầu cảng Công ty xi măng Thăng Long (Cái Lân-Quảng Ninh)

Các sản phẩm chế thử của đề tài đã được chi cục đo lường chất lượng Hải Phòng kiểm chứng đạt các yêu cầu kỹ thuật tương đương song giá thành chỉ bằng 1/2 đến 1/3 so với so với sản phẩm nhập ngoại cùng loại. Trên cơ sở đó, những sản phẩm này đã được triển khai ứng dụng tại một số hải cảng, công trình nạo vét đường sông, đường biển và được các đơn vị sử dụng đánh giá cao.

Việc tiếp tục hoàn thiện công nghệ chế tạo vật liệu và các loại sản phẩm cao su kỹ thuật cao, đặc biệt là đệm chống va đập tàu biển cao cấp đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao, phục vụ đắc lực cho nhu cầu ngày càng lớn của ngành giao thông đường thủy, xây dựng cầu cảng, đóng tàu nói riêng và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung.

Nguồn tin: PGS.TS. Đỗ Quang Kháng, NCVCC
Phòng Công nghệ vật liệu polyme, Viện Hóa học
Xử lý tin: Bích Diệp



Tags:
Tin liên quan