Ghi nhận mới về đa dạng thực vật và tiềm năng sử dụng tài nguyên thực vật tại khu vực đất ngập nước, Vườn Quốc gia Xuân Thủy

14/04/2025
Rừng ngập mặn (RNM) đóng vai trò quan trọng cả về sinh thái và kinh tế - xã hội, được ví như “trung tâm” của hệ sinh thái biển nhiệt đới. Đây là một trong những hệ sinh thái giàu đa dạng sinh học và di truyền nhất thế giới, nơi sinh sống của khoảng 90% sinh vật biển và là nguồn cung cấp tới 80% sản lượng thủy hải sản đánh bắt toàn cầu. Tuy nhiên, rừng ngập mặn cũng rất dễ bị tổn thương trước các tác động của con người và biến đổi khí hậu.

Tháng 1 năm 1989, khu đất ngập nước ven biển thuộc huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định chính thức được công nhận là vùng Ramsar – theo Công ước Ramsar về bảo vệ các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của các loài chim nước. Đây không chỉ là điểm Ramsar đầu tiên của Việt Nam mà còn là điểm Ramsar đầu tiên của Đông Nam Á và thứ 50 trên thế giới. Đến tháng 12 năm 2004, UNESCO tiếp tục công nhận Khu dự trữ sinh quyển đồng bằng châu thổ sông Hồng, trong đó Vườn Quốc gia (VQG) Xuân Thủy đóng vai trò là vùng lõi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với khu dự trữ sinh quyển thế giới này.

Hệ sinh thái đất ngập nước đóng vai trò quan trọng trong cân bằng sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học và mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, chúng đang chịu áp lực lớn từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng và hoạt động khai thác tài nguyên không bền vững. Sự suy thoái của các hệ sinh thái này kéo theo nguy cơ mất đa dạng sinh học nghiêm trọng. Cả Việt Nam và Belarus, dù có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, đều sở hữu những vùng đất ngập nước phong phú và cần được đánh giá, nghiên cứu toàn diện, hệ thống.

Nhằm đánh giá hiện trạng đa dạng thực vật trong hệ sinh thái dưới nước và đất ngập nước tại Việt Nam và Belarus, TS. Lưu Đàm Ngọc Anh cùng nhóm nghiên cứu Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam đã phối hợp với nhóm nghiên cứu thuộc Vườn Thực vật Trung tâm Belarus (CBG) đề xuất và được Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam phê duyệt thực hiện nhiệm vụ “Đánh giá hiện trạng đa dạng các loài thực vật thuộc hệ sinh thái dưới nước và đất ngập nước tại Việt Nam và Belarus” (mã số: QTBY01.03/23-24). Nhiệm vụ này được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác với Quỹ Nghiên cứu Cơ bản Belarus (Cộng hòa Belarus). Nghiên cứu tập trung đánh giá tính đa dạng của các loài thực vật trong hệ sinh thái đất ngập nước tại VQG Xuân Thủy (Khu Dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng), đồng thời đánh giá hiện trạng các loài bản địa quý hiếm cần được bảo vệ. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn khám phá giá trị tài nguyên thực vật rừng, đặc biệt là các loài cây có tinh dầu và cây thuốc, từ đó đề xuất các biện pháp sử dụng bền vững nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của những loài thực vật này.

Những phát hiện mới

Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã tiến hành khảo sát và kết quả cho thấy, có 201 loài thực vật bậc cao có mạch được ghi nhận tại VQG Xuân Thủy. Đáng chú ý, 2 loài thực vật quý hiếm đã được ghi nhận trong Sách đỏ Việt Nam 2024, gồm loài Cỏ ngạn (Scirpus kimsonensis N.K.Khoi) thuộc nhóm Nguy cấp (EN) và loài Cóc đỏ (Lumnitzera littorea (Jack) Voigt) thuộc nhóm Sẽ nguy cấp (VU).

Hình ảnh loài Cóc đỏ (Lumnitzera littorea (Jack) Voigt) (Ảnh: Bùi Văn Hướng)

Loài Cỏ ngạn (Scirpus kimsonensis N.K.Khoi) (Ảnh: Đỗ Văn Hài)

Ngoài ra, nghiên cứu còn tập trung vào tiềm năng hoạt tính sinh học của các loài thực vật. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành sàng lọc hoạt tính kháng vi sinh vật và kháng viêm của các loài cây trong khu vực. Kết quả cho thấy, cao chiết thô từ lá và tinh dầu của 12 loài thực vật có khả năng kháng vi sinh vật kiểm định. Đồng thời, dịch chiết từ lá của 22 loài thực vật cũng đã được kiểm nghiệm về khả năng kháng viêm.

Nghiên cứu có nhiều thành tựu trong đào tạo và hợp tác quốc tế, cụ thể đã hỗ trợ đào tạo một thạc sĩ Dược học và 2 cử nhân Hóa dược, góp phần nâng cao nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học sự sống. Đồng thời, hợp tác khoa học giữa 2 quốc gia đã được thúc đẩy thông qua các đoàn khảo sát và trao đổi chuyên gia giữa Việt Nam và Belarus.

Các kết quả nghiên cứu đã được công bố trên các tạp chí khoa học uy tín trong nước và quốc tế. Tiêu biểu là bài báo trên Tạp chí Microbiology & Biotechnology (2025) về hoạt tính ức chế tụ cầu vàng kháng Methicilline (MRSA) của tinh dầu từ 4 loài thực vật tại rừng ngập mặn Xuân Thủy, bao gồm Sphagneticola trilobata, Vitex rotundifolia, Vitex trifoliaAnnona glabra. Kết quả cho thấy tinh dầu từ S. trilobata có hoạt tính ức chế mạnh nhất. Tụ cầu vàng kháng methicilline (Methicillin-Resistant Staphylococcus aureus - MRSA) hiện là vấn đề y tế toàn cầu và là một thách thức trong điều trị. Hiện nay, MRSA đang gia tăng về tần suất và hiện hữu ở nhiều cơ sở y tế và cộng đồng. Phân tích docking phân tử cũng chỉ ra một số hợp chất chính trong tinh dầu có liên kết mạnh với protein đích của S. aureus, mở ra tiềm năng ứng dụng trong phát triển chất kháng khuẩn từ thực vật ngập mặn. Ngoài ra, các kết quả khác về khả năng kháng viêm và hiệu suất chiết xuất từ lá các loài thực vật ngập mặn cũng đã được đăng tải trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên và Tạp chí Y dược cổ truyền Việt Nam.

TS. Lưu Đàm Ngọc Anh cho biết: Nghiên cứu đã đánh giá toàn diện về đa dạng thực vật tại VQG Xuân Thủy, bao gồm thành phần loài, tình trạng quý hiếm của các loài thực vật và tiềm năng sử dụng tài nguyên thực vật tại khu vực đất ngập nước ở Việt Nam và Belarus. Những ghi nhận mới không chỉ cung cấp dữ liệu đa dạng sinh học mà còn mở ra triển vọng sử dụng bền vững tài  nguyên thực vật rừng ngập mặn tại VQG Xuân Thủy nói riêng và các khu vực RNM ở Việt Nam nói chung. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và suy giảm đa dạng sinh học toàn cầu, việc nghiên cứu và quản lý hiệu quả các hệ sinh thái trọng yếu này là nhiệm vụ cấp thiết, góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên sinh học quý giá cho thế hệ tương lai.

Bên cạnh đó, nghiên cứu còn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học nhằm quản lý bền vững tài nguyên sinh vật tại các khu Ramsar, đồng thời hỗ trợ xây dựng chiến lược bảo tồn hiệu quả trước các tác động của biến đổi khí hậu và hoạt động dân sinh. Đáng chú ý, sự phát triển mạnh của một số loài thực vật được bảo vệ nhưng có nguy cơ trở thành loài xâm hại đang đặt ra thách thức lớn trong công tác bảo tồn. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu về hoạt tính sinh học kết hợp với dự đoán bằng docking phân tử mở ra tiềm năng ứng dụng trong y-dược học, đồng thời là cơ sở cho các nghiên cứu giám sát tài nguyên thực vật một cách bền vững. Hợp tác nghiên cứu giữa Việt Nam và Belarus không chỉ nâng cao năng lực khoa học mà còn góp phần đào tạo thế hệ chuyên gia trẻ, tạo nguồn dữ liệu quan trọng phục vụ giảng dạy và nghiên cứu dài hạn về biến đổi khí hậu cũng như bảo tồn đa dạng sinh học.

Một số hình ảnh về hoạt động trao đổi hợp tác nghiên cứu

Các thành viên thực hiện hợp tác nghiên cứu, từ trái qua, TS. Aliasandr Mialik, GS.VS Vladimir V. Titok (Chủ nhiệm Nhiệm vụ phía Belarus), TS. Lưu Đàm Ngọc Anh, GS.TS. Privalov Fedor Ivanovich (Giám đốc CBG), NCV. Natallia Hudnaya. Nghiên cứu điều tra thực địa, đánh giá tình trạng bảo tồn một số loài thực vật tại VQG Belovezhskaya Pushcha, cánh rừng nguyên sinh lâu đời nhất còn tồn tại ở Châu Âu, nằm giữa Cộng hoà Belarus và Balan

Các nhà thực vật học của Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam và Vườn Thực vật Trung tâm Belarus, khảo sát nghiên cứu tại VQG Xuân Thủy vào tháng 8 năm 2024

Cung cấp tin: Chu Thị Ngân - Trung tâm Dữ liệu và Thông tin khoa học
Xử lý tin: Thanh Hà



Tags:
Tin liên quan