Kết quả chính của đề tài |
Sau hai năm thực hiện đề tài, tập thể tác giả đã thu được các kết quả nghiên cứu như sau: - Bộ tư liệu khoa học về các đặc điểm sinh học, sinh thái của Sao La là cơ sở khoa học cho các chiến lược và giải pháp bảo tồn Sao La ở Việt Nam. - Bản đồ Phân Bố của Sao La, có chỉ rõ các quần thể quan trọng cho bảo tồn. - Các giải pháp cụ thể và khả thi để bảo tồn Sao La ở Việt Nam. Từ các kết quả nghiên cứu đã đưa ra kết luận như sau: 1. Sao La trưởng thành có dài thân-đầu là 130-150 cm, cao vai 80-90 cm, dài đuôi 12-23 cm, dài tai 10-13 cm và khối lượng thân 50-100 kg. Chưa có ghi nhận về sự khác biệt giới tính trong các số đo kích thước cơ thể. Giá trị trung bình của rộng hộp sọ là 10,2 cm, dài hộp sọ 27,1 cm, rộng cung gò má 11,7 cm, rộng ổ mắt 4,2 cm; giá trị trung bình của dài sừng là 41,3 cm, chu vi gốc sừng 11,3 cm, khoảng cách giữa hai gốc nhánh sừng 3,7 cm, khoảng cách giữa hai mút nhánh sừng 12,8 cm. Sao La thuộc họ Bò (Bovidae); 2 quần thể Sao La ở Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế có quan hệ mật thiết với nhau (bootstrap 100%, hệ số sai khác rất nhỏ 3,8%). 2. Tập tính nổi bật của Sao La là dùng tuyến xạ trước ổ mắt để đánh dấu vùng hoạt động; rất nhạy cảm với sự xuất hiện của chó săn và rất dễ quen với người khi bị bắt về nuôi. Sao La thường hoạt động kiếm ăn vào sáng sớm (5-10h) và chiều muộn (18-19h), chưa có ghi nhận về Sao la hoạt động vào ban đêm. Sao La sống đơn lẻ, chỉ ghép đôi vào mùa động dục. Ghi nhận ban đầu cho thấy, ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị thời kỳ động dục của Sao La tập trung vào tháng 8-9, sinh sản tập trung vào tháng 4-5 năm sau; ở Thừa Thiên Huế và Quảng Nam Sao La động dục vào tháng 10-11 và sinh con vào tháng 6-7 năm sau. Sao La mẹ mang thai khoảng 8 tháng, thường chỉ có 1 thai. 3. Sao La ăn lá, cành non và quả của 105 loài cây thuộc 54 họ thực vật khác nhau. Trong đó, có 23 loài cây, Sao La thường hay ăn nhất, gồm những cây có thân mềm, ưa ẩm sống dưới tán rừng, gần các suối cạn hay có nước chảy. Các loài cây thức ăn đặc trưng nhất của Sao La là môn thục (Schismatoglottis calyptrata), thiên niên kiện (Homalomena occulta) và một số loài dương xỉ (Pteridium aquilinum, Diplazium esculentum, Colysis pothifolia, Cyathea gigantea). 4. Sao La thích nghi với các kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới khác nhau nhưng thường gặp nhất là rừng đất thấp và rừng núi thấp còn nguyên sinh, bị tác động ít hoặc thứ sinh nhiều tầng với nền nhiệt độ trung bình năm từ 21,4 - 35,30C và lượng mưa trung bình năm từ 1.7901 - 5.845 mm. Nơi sống của Sao La có địa hình hiểm trở, chia cắt mạnh, độ dốc trung bình 30-450, độ cao bình độ từ 400 - 1.000 m. Sao La hoạt động chủ yếu trong các khe suối đá, sườn dốc, nước chảy nhanh, có nhiều thác ghềnh khó qua lại và cách xa khu dân cư. Sao la có cùng sinh cảnh với Sơn Dương (Naemorhedus sumatraensis) nhưng hoạt động ở dải thấp hơn và ẩm ướt hơn. 5. Các đặc điểm chính nơi kiếm ăn của Sao La là: Địa hình hiểm trở, nhiều khe suối nước chảy nhanh hoặc cạn theo mùa, lập địa có nhiều đá xô và xa các khu dân cư, rừng thường xanh cây lá rộng nguyên sinh, bị tác động ít hoặc thứ sinh đã có cấu trúc 4-5 tầng; tầng thảm tươi rậm rạp, nhiều cây ưa ẩm với số lượng cây thức ăn của Sao La chiếm trên 10% tổng số cây và đặc biệt phải có tỷ lệ cao các loài cây môn thục (Schismatoglottis calyptrata), dương xỉ (Colysis pothifolia) và mua trườn (Allomorphia bracteata). Sự hiện diện của nhóm cây môn thục, dương xỉ và mua trườn với số lượng lớn và chỉ thị cho nơi kiếm ăn tốt của Sao La. Các điểm muối khoáng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sống của Sao La. 6. Ở Việt Nam, đã ghi nhận được Sao La cư trú tại 50 xã, thuộc 20 huyện và 6 tỉnh. Vùng phân bố lịch sử của Sao La ở Việt Nam kéo dài từ Quế Phong, tỉnh Nghệ An xuống đến huyện Tây Giang, Quảng Nam (khoảng từ 19030’B đến 15050’B). Vùng phân bố hiện nay của Sao La từ sông Chu thuộc huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An xuống đến xã A Vương, huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam (khoảng từ 19030’B đến 15050’B). Quần thể Sao La đã bị suy giảm mạnh, số lượng cá thể ước tính chỉ còn 120-160 con, sống thành nhiều nhóm nhỏ (chủ yếu dưới 10 cá thể) và đang chịu áp lực mạnh của tình trạng săn bắt và mất sinh cảnh. 7. Hiện nay, chỉ có 3 quần thể Sao La có số lượng trên mười cá thể: Ở Thừa Thiên Huế - Tây Bắc Quảng Nam (40-50 cá thể), ở Tây Nam Quảng Bình Khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, Quảng trị (20-30 cá thể) và Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Nghệ An (20-30 cá thể). Hai khu vực được xác định là có tầm quan trọng đặc biệt đối với bảo tồn Sao La là: - Khu vực Thừa Thiên Huế - Tây Bắc Quảng Nam. - Khu vực Tây Nam Quảng Bình và Khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa (Quảng trị). Mức đe dọa của Sao La trong Sách Đỏ Việt Nam cần chuyển từ bậc EN- nguy cấp hiện nay sang bậc CR- cực kỳ nguy cấp để thu hút được sự quan tâm đúng mức của Chính phủ và các cơ quan, tổ chức bảo tồn. 8. Các nguyên nhân làm suy giảm các quần thể Sao La ở Việt Nam đồng thời cũng là các đe dọa chính hiện nay đối với các quần thể Sao La ở Việt Nam là: - Tình trạng săn bắt động vật hoang dã còn phổ biến và chưa được kiểm soát - Việc mất sinh cảnh sống của Sao La do các hoạt động phát rừng lấy đất canh tác nông nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng. - Sự quấy nhiễu sinh cảnh sống của Sao La do các hoạt động khai thác lâm sản và khoáng sản 9. Có 6 giải pháp bảo tồn Sao La được đề xuất bao gồm: - Thực thi triệt để các văn bản luật pháp về bảo vệ rừng, bảo vệ động vật hoang dã. - Quy hoạch vùng cảnh quan bảo vệ an toàn cho Sao La. - Phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia bảo tồn Sao La của Việt Nam giai đoạn 2005-2010. - Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức bảo tồn Sao La. - Tăng cường hoạt động bảo tồn Sao La tại 6 khu vực bảo tồn thiên nhiên có Sao La. - Tăng cường các nghiên cứu về cầu sinh học sinh thái Sao la. 10. Có 2 khu cảnh quan bảo tồn Sao La được đề xuất là: Khu cảnh quan bảo tồn Sao La Tây Nam Quảng Bình - Tây Bắc Quảng Trị và khu bảo tồn Sao La Tây Nam Thừa Thiên Huế - Tây Bắc Quảng Nam. Trong đó, khu cảnh quan bảo tồn Sao La Tây Nam Thừa Thiên Huế - Tây bắc Quảng Nam bước đầu được hình thành với việc mở rộng Vườn Quốc gia Bạch Mã và chuẩn bị thành lập 2 khu bảo tồn ở Thừa Thiên Huế và Quảng Nam. Đề tài đã tham gia xây dựng Dự án khả thi thành lập khu bảo tồn loài sinh cảnh Sao La Quảng Nam. Từ các kết quả nghiên cứu của đề tài bước đầu đã có 03 báo cáo thuyết trình tại hội thảo và hội nghị khoa học quốc gia, 01 bài báo chuẩn bị công bố trên Tạp chí Sinh học, 01 bài chuẩn bị công bố trên Tạp chí Công nghệ Sinh học. Các tác giả đang tiếp tục chuẩn bị một số bài báo khác để công bố trong nước và quốc tế. |