Thông tin Đề tài

Tên đề tài Nghiên cứu dự báo khoanh vùng chi tiết nguy cơ nứt sụt đất dọc đới sông Hồng thuộc một số địa phương tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc, phục vụ quy hoạch khai thác hợp lý lãnh thổ
Cơ quan chủ trì (Cơ quan thực hiện) Viện Địa chất
Thuộc Danh mục đề tài Hướng Khoa học trái đất (VAST05)
Họ và tên PGS.TS. Đinh Văn Toàn
Thời gian thực hiện 01/01/2006 - 01/01/2007
Tổng kinh phí 250 triệu
Kết quả chính của đề tài
  • Đề tài đã thu thập đầy đủ các số liệu đã có, triển khai một khối lượng lớn các khảo sát nghiên cứu bổ sung, bao gồm: Các khảo địa chất - kiến tạo, địa mạo ở nhiều điểm tại các địa phương nói trên; tiến hành phân tích ảnh viễm thám và ảnh máy bay chi tiết và thực hiện đo một khối lượng đáng kể các phép đo địa vật lý bằng phương pháp địa chấn, địa nhiệt. Tổng các điểm đo địa nhiệt là 223 điểm phân bố trên 7 tuyến đo với tổng chiều dài đến 9.110m. Phương pháp địa chấn được tiến hành đo cả sóng ngang và sóng dọc, trong đó, đo sóng dọc đã thực hiện trên 8 tuyến, gồm 80 điểm với tổng chiều dài đạt đến 4.375m; sóng ngang chỉ tiến hành đo được 3 tuyến, gồm 18 điểm với tổng chiều dài tuyến 990m . Ngoài khối lượng đo đạc nêu trên , đề tài đã thu được một khối lượng lớn số liệu đo điện, điện từ và địa chấn do đề tài cấp tỉnh Phú Thọ thực hiện cùng thời gian. Các nguồn số liệu bổ sung như trên đã cho phép đánh giá các yếu tố liên quan đến nội dung đề tài ở mức độ chi tiết hơn nhiều so với các nghiên cứu trước đây.
  • Nứt sụt đất ở một số địa phương thuộc huyện Thanh Ba, Tam Dương và Mê Linh đã xảy ra với quy mô lớn, trong khoảng thời gian dài, làm thiệt hại đáng kể về tài sản và gây hoang mang cho người dân địa phương. Hiện tượng nứt sụt đất ở Thanh Ba còn kèm theo hiện tượng mất nước ngầm sinh hoạt và canh tác và vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt. Các vết nứt thường xuất hiện quang khu vực đứt gãy và phần lớn chúng tạo thành dải theo phương của đứt gãy.
  • Nguyên nhân chính của hiện tượng nứt sụt đất ở cả ba địa phương nêu trên là do hoạt động của các đới đứt gãy kiến tạo phân bố trong vùng. Tuy nhiên ở Thanh Ba mặc dù đứt gãy hoạt động là nguyên nhân chính nhưng nứt sụt đất ở đây xuất hiện còn có phần đóng góp đáng kể của các yếu tố khác mang tính thúc đẩy như các hoạt động castơ tính chất bở rời của lớp phủ mỏng, hoạt động khai thác nước và đá của con người v.v.
  • Các kết quả nghiên cứu bổ sung lần này đã cho phép chi tiết hoá được nhiều yếu tố liên quan đến hiện tượng nứt sụt đất ở các địa phương nói trên, đặc biệt là mạng lưới đứt gãy hoạt động trẻ. Đây cũng là cơ sở đảm bảo độ tin cậy cho việc đánh giá nguyên nhân làm phát sinh tai biến và khoanh vùng dự báo nguy cơ nứt sụt đất. Điều này đảm bảo cho các sơ đồ kết quả có ý nghĩa sử dụng tham khảo định hướng quy hoạch khai thác lãnh thổ ở các địa phương nói trên.

Từ các kết quả nghiên cứu, Tập thể tác giả đã đưa ra một số giải pháp phòng tránh giảm nhẹ thiện hại:

  • Cơ chế nứt sụt đất ở Thanh Ba cũng có những điểm không giống với nứt đất tại hai huyện còn lại. Bởi vậy, cách phân vùng như nêu trên cũng là một khái niệm tương đối, không đồng nhất cho cả ba huyện. Tại Thanh ba nguy cơ nứt sụt đất được dự báo theo 5 cấp, trong khi ở hai huyện còn lại là 4 cấp. Trong thực tế, số yếu tố tác động cần được tính đến trong khi phân vùng ở Thanh Ba nhiều hơn, phức tạp hơn so với hai địa phương Tam Dương và Mê Linh. Như vậy, để dễ dàng hơn cho việc sử dụng kết quả nghiên cứu, các giải pháp nêu ra dưới đây cũng sẽ áp dụng tách riêng cho huyện Thanh Ba. Hai huyện còn lại sẽ cùng chung một đề xuất về giải pháp bởi tính đồng nhất về các tiêu chí phân vùng. Khi nói đến giải pháp thì giải pháp quy hoạch bao giờ cũng là giải pháp có ý nghĩa lâu dài và bền vững nhất, tuy nhiên không phải nơi nào, lúc nào cũng có điều kiện để thực hiện giải pháp này.