Kết quả chính của đề tài |
- Đã tiến hành thu thập tài liệu, khảo sát hiện trạng môi trường và tính toán các số liệu thu được.
- Trong khuôn khổ đề tài, 2 chuyến khảo sát đã được thực hiện trong 2 mùa khô và mùa mưa. Tổng số 77 mẫu nước, 38 mẫu sinh vật và 28 mẫu trầm tích trạm mặt rộng đã thu được và phân tích trong hai cửa sông Bạch Đằng và Ba Lạt vào kỳ triều kém. Ngoài ra, 2 trạm khảo sát liên tục về vật lý thuỷ văn đã được thực hiện trong 2 mùa khô và mưa vào kỳ triều cường. Việc tính toán khả năng tích luỹ các chất ô nhiễm hầu hết dựa vào những công thức tính đơn giản, dễ hiểu.
- Báo cáo tổng hợp được xây dựng dựa trên cơ sở thực hiện các báo cáo chuyên đề và báo cáo thu thập tài liệu:
- Báo cáo thu thập tài liệu: Tổng quan môi trường khu vực cửa sông Bạch Đằng và Ba Lạt.
- Báo cáo chuyên đề: “Mô hình toán nghiên cứu thủy động lực, lan truyền trầm tích lơ lửng khu vực cửa sông Cấm - Bạch Đằng và Ba Lạt”.
- Báo cáo chuyên đề: “Khả năng lưu giữ các chất ô nhiễm trong khối nước vùng cửa Cấm - Bạch Đằng và Ba Lạt”.
- Báo cáo chuyên đề: “Khả năng tích luỹ và phân tán chất ô nhiễm trong trầm tích vùng cửa sông Bạch Đằng và Ba Lạt”.
- Báo cáo chuyên đề: “Nghiên cứu tác động của các chất ô nhiễm đối với sinh vật và các hệ sinh thái”.
- Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, Tập thể tác giả đã đưa ra một số kết luận và đề xuất như sau:
Kết luận: Cửa sông Bạch Đằng và Ba Lạt là hai cửa sông lớn của miền Bắc đặc trưng cho hai chế độ động lực khác nhau. Cửa sông hình phễu Bạch Đằng dòng triều thống trị là chủ yếu trong khi cửa sông Ba Lạt dòng chảy dọc bờ thống trị. Kết quả nghiên cứu trong khuôn khổ đề tài cho thấy môi trường nước, trầm tích và sinh vật ở hai khu vực cửa sông đã bị tác động bởi các chất ô nhiễm, đặc biệt là môi trường trầm tích và sinh vật. 1. Về hiện trạng môi trường của khu vực nghiên cứu
- Môi trường nước: ngoài một số đặc điểm đặc trưng của nước khu vực cửa sông như có hàm lượng phù sa và dinh dưỡng lớn, nước biển trong khu vực nghiên cứu có một số biểu hiện thiếu hụt oxy hoà tan và ô nhiễm nitrit trong mùa mưa (khu vực Đình Vũ - cửa Cấm - Bạch Đằng) ở khu vực Đình Vũ. Nước biển tầng mặt khu vực cửa Bạch Đằng đã bị ô nhiễm dầu từ 1,1 đến 3,7 lần, trong khi khu vực cửa Ba Lạt có biểu hiện bị ô nhiễm cục bộ bởi dầu mỡ trong mùa khô. Nước trong khu vực bị ô nhiễm thường xuyên bởi kẽm với nồng độ trung bình năm lớn hơn GHCP 1,3 lần. Nước biển có hàm lượng tổng HCBVTV cơ clo khá thấp. Tuy nhiên, khu vực cửa Bạch Đằng và Ba Lạt đều có biểu hiện ô nhiễm cục bộ bởi HCBVTV cơ clo. Đặc biệt, nước khu vực phía tây Cát Hải bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi các HCBVTV cơ clo trong mùa mưa (nồng độ Endrin lớn hơn GHCP 3 lần, nồng độ tổng DDT lớn hơn GHCP 228 lần) có khả năng liên quan đến nguồn HCBVTV được đưa ra từ sông Bạch Đằng.
- Môi trường trầm tích: Trầm tích khu vực nghiên cứu có hàm lượng nitơ tổng số vượt ngưỡng tác động của Canada, giá trị vượt ngưỡng cao nhất là 4 đến 5 lần. Hàm lượng các kim loại nặng trong trầm tích khá cao, các kim loại đồng, chì, kẽm, thuỷ ngân trong trầm tích hai cửa sông đều vượt ngưỡng tác động ISGQ của Canada từ 1,3 đến 5 lần, một số kim loại có giá trị xấp xỉ ngưỡng PEL như chì tại khu vực cửa Ba Lạt. Trong số 7 HCBVTV cơ clo được quan trắc thì 4.4’DDD có hàm lượng vượt ngưỡng ISQG ở hầu hết các trạm khảo sát, thậm chí trầm tích ở khu vực lạch sau cồn Lu (cửa Ba Lạt) có hàm lượng 4.4’DDD vượt ngưỡng PEL 1,5 lần và Endrin vượt ngưỡng ISQG 4,3 lần.
- Về dư lượng độc tố trong ngao: Lindan, Endrin và 4,4’ – DDD là những chất xuất hiện thường xuyên trong các mẫu ngao phân tích. So với GHCP của Việt Nam, các mẫu ngao đều có nồng độ Endrin vượt quá GHCP (0,2 mg/kg khô) từ 5 đến 10 lần. Đặc biệt, mẫu ngó đen Dosinia Laminata thu mua được tại Cát Hải trong mùa mưa 2006 có nồng độ Endrin vượt GHCP của Việt Nam 142 lần, nồng độ 4,4-DDD vượt GHCP 5,7 lần. Mẫu ngao của khu vực nghiên cứu đã bị ô nhiễm bởi các kim loại nặng, cụ thể là ô nhiễm đồng với hệ số từ 1,5 đến 3,5 lần so với nồng độ tối đa cho phép đối với thực phẩm của Úc, 1980 (<10 mg/kg khô); ngao bị ô nhiễm chì từ 3 đến 13 lần so với nồng độ tối đa cho phép đối với thực phẩm của Úc, 1980 (<2,50 mg/kg khô).
2. Về khả năng tích tụ các chất ô nhiễm vùng cửa sông: - Kết quả tính toán đã chỉ ra rằng, mỗi năm nguồn lục địa đưa ra qua cửa sông Cấm - Bạch Đằng khoảng 6,1 triệu tấn trầm tích lơ lửng, 142 nghìn tấn COD, 101 nghìn tấn nitơ, 19,5 nghìn tấn phospho, gần 20 nghìn tấn dầu mỡ, hơn 2,4 nghìn tấn kim loại nặng (trong đó có 578 tấn đồng, 570 tấn chì, 1198 tấn kẽm, 7,1 tấn thuỷ ngân, 24 tấn Cd, 66 tấn Asen) và 1,9 tấn HCBVTV cơ clo. Trong đó có khoảng 27,2% lượng trầm tích lơ lửng được tích luỹ trong vùng cửa sông. Khả năng tích tụ đối với các hợp chất của C, N, P là khoảng 2,2% đến 3,7%, của dầu mỡ là 3%, của xyanua là 1,5%, của HCBVTV cơ clo là 15,1%, của đồng là 14,2%, của chì là 15,3%, của kẽm là 19,9%. Các kim loại Cd, As, Hg tích tụ thấp hơn, từ 2,3% đến 5,9%.
- Khu vực cửa sông Ba Lạt hàng năm tiếp nhận khoảng gần 20 triệu tấn trầm tích lơ lửng, 241 nghìn tấn COD, 131 nghìn tấn nitơ và 21,8 nghìn tấn phospho. Khu vực cửa Ba Lạt cũng tiếp nhận khoảng 12.935 tấn dầu mỡ, 2.246 tấn kim loại nặng các loại, 0,46 tấn HCBVTV cơ clo và khoảng 49 tấn xyanua. Trong đó khoảng 10,2% lượng trầm tích lơ lửng được tích tụ trong trầm tích và nước vùng cửa sông. Khả năng tích tụ đối với các hợp chất của C, N, P là từ 0,7% đến 0,9%, của dầu mỡ là 1,7%, của HCBVTV cơ clo là 4,2%, của xyanua là 0,7%, của đồng là 9,8%, của chì là 23,87%, của kẽm là 11,21%. Các kim loại Hg, As, Cd tích luỹ khoảng 3 đến 6%.
- Các kim loại nặng và các hoá chất bảo vệ thực vật có khả năng tích luỹ rất cao trong các mô sinh vật. Hệ số tích luỹ cao nhất của Lindan trong ngao khu vực ghi nhận được là 1087, của Aldrin là 1282, của Endrin là 8408, của 4,4’DDD là 3942 và của 4,4- DDT là 738. Hệ số tích luỹ cao nhất của các kim loại nặng trong khu vực nghiên cứu đối với Cu, Pb, Zn, Cd, Hg, As tương ứng là 3794, 5291, 7136, 10284, 4653 và 472.
3. Về phạm vi và khả năng phân tán của các chất: - Phạm vi phân tán: Khu vực cửa Cấm - Bạch Đằng, vào mùa mưa khi triều xuống, khối nước bao phủ gần như toàn bộ phía Nam Đảo Cát Hải và Đông Bán đảo Đồ Sơn. Vào mùa khô, khối nước chỉ tập trung sát các cửa sông Cấm - Bạch Đằng và phía Tây Đảo Cát Hải. Tại khu vực Ba Lạt, vào mùa mưa, khối nước có thể lan toả đến độ sâu 25 đến 30m nhưng trong mùa khô, khối nước bị thu hẹp lại tập trung ở các vùng bãi nông và dọc theo đới bờ.
- Khả năng phân tán: kết quả tính toán đã chỉ ra rằng, đối với các thông số tham gia vào chu trình sinh, địa, hoá của của khu vực cửa sông thì khả năng phân tán từ trầm tích trở lại môi trường nước là 75-80%. Đối với các thông số có khả năng tích luỹ sinh học như các kim loại nặng và các HCBVTV cơ clo thì khả năng phân tán từ trầm tích vào cơ thể sinh học rất cao, chiếm từ 60% đến 100% đối với từng thông số. Khả năng phân tán mạnh nhất và hoàn toàn đối với Hg, Zn và các HCBVTV cơ clo ở cả hai khu vực, thấp nhất đối với As và Pb. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chính xác mức độ phân tán trở lại của các chất ô nhiễm trong trầm tích vào môi trường và sinh vật đòi hỏi rất nhiều nghiên cứu khác liên quan đến thành phần loài và trữ lượng của chúng trong khu vực, sinh khối của các thực vật phù du, tảo… Vì vậy đây là một việc rất khó khăn không thể giải quyết trong khuôn khổ đề tài.
|