Nghiệm thu đề tài: “Nghiên cứu hoàn thiện quy trình tuyển chọn, nhân nuôi; xây dựng mô hình chuyển giao công nghệ và thương mại hóa sản phẩm trong chăn nuôi heo rừng, bò sữa, bò thịt tại khu vực Tây Nguyên”
HĐKHCNCNN gồm: PGS.TS. Hoàng Văn Tiệu, Hội Chăn nuôi Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng; GS.TS. Vũ Đình Tôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng. Hai ủy viên phản biện là: PGS.TS. Nguyễn Bá Mùi, Học viện Nông nghiệp Việt Nam; TS. Nguyễn Hữu Đức, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
PGS.TS. Hoàng Văn Tiệu, Hội Chăn nuôi Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng chủ trì buổi nghiệm thu
Tham dự buổi nghiệm thu còn có TS. NCVCC. Nguyễn Đình Kỳ, Phó Chủ nhiệm Chương trình Tây Nguyên 2016-2020, đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ, đại diện Viện Hàn lâm KHCNVN, đại diện cơ quan chủ trì đề tài, cùng đông đảo các nhà khoa học quan tâm đến dự.
Phát biểu tại buổi nghiệm thu, TS. NCVCC. Nguyễn Đình Kỳ, Phó Chủ nhiệm Chương trình Tây Nguyên 2016-2020 cho biết, đây là nhiệm vụ khoa học công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong lĩnh vực chăn nuôi, đề tài kế tục nhiệm vụ khoa học trong Chương trình Tây Nguyên 3 nhằm hoàn thiện đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Phó Chủ nhiệm cũng mong muốn Hội đồng nghiệm thu đánh giá và góp ý để kết quả của đề tài được nhân rộng phục vụ cuộc sống của đồng bào khu vực Tây Nguyên.
Chủ nhiệm đề tài PGS.TS. Hoàng Nghĩa Sơn báo cáo tại buổi nghiệm thu
Dựa trên các kết quả nghiên cứu PGS.TS. Hoàng Nghĩa Sơn, chủ nhiệm đề tài đã nêu bật các đóng góp, phát hiện của đề tài trong quá trình nghiên cứu về nội dung, cũng như thu được các sản phẩm cụ thể. Đề tài đã thực hiện được các mục mục tiêu chính là: Truyển chọn, ổn định được giống heo rừng thuần và phát triển công nghệ chăn nuôi heo rừng lai thương phẩm. Xây dựng trang trại chăn nuôi và thương hiệu thịt heo rừng có nguồn gốc Tây Nguyên. Bảo vệ nguồn gen heo rừng cấp độ phòng thí nghiệm và trong tự nhiên. Cải tạo và nâng cao chất lượng đàn bò thịt và sữa tại một số vùng thuộc biên giới của tỉnh Đắk Nông phục vụ phát triển kinh tế gắn liền với an ninh quốc phòng thông qua việc hoàn thiện công nghệ thụ tinh nhân tạo và công nghệ phôi bò.
Đề tài đã tạo được đàn trên 110 con heo rừng lai từ heo rừng thuần Tây Nguyên, có chất lượng thịt ngon, hàng năm đẻ thêm trên 850 con. Xây dựng được ngân hàng tinh heo rừng đông lạnh 200 ống cryotype, với tỉ lệ sống trên 60%, 200 cọng tế bào heo rừng đông lạnh sống trên 60% và 50 cọng rạ phôi heo rừng đông lạnh từ trạng thái morular trở lên, sống trên 50%.
Heo mẹ rừng lai F1, con lai F2
TS. NCVCC. Nguyễn Đình Kỳ, Phó Chủ nhiệm Chương trình kiểm tra mô hình nuôi heo rừng thuần và lai tại HTX Minh Tâm, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông
Về bê sữa, đề tài đã tạo được 44 bê cái có năng suất dự kiến trên 5.000kg/chu kỳ, được đánh giá có ưu thế hơn 10% so với đàn bò hiện có. Với bê lai hướng thịt, đề tài đã tạo được 310 con, dự kiến thể trọng đạt trên 280kg sau 24 tháng, ưu thế hơn 15% so với đàn bò hiện có.
Bê con từ gieo tinh xác định giới tính của đề tài
Đề tài cũng đã xây dựng được 05 quy trình gồm: Quy trình tuyển chọn, ổn định giống heo rừng thuần; Quy trình chăn nuôi heo rừng lai thương phẩm; Quy trình thu nhận, lưu giữ nguồn tinh heo rừng; Quy trình tạo phôi heo rừng in vitro; Quy trình sử dụng hóc môn sinh sản điều khiển động dục cho đàn bò sữa và bò lai hướng thịt để nâng cao năng suất sinh sản đàn bò và hai bộ số liệu liên quan đến đa hình các gian chỉ thị về khả năng kháng bệnh, khả năng tăng trọng và chất lượng thịt trên heo và bò là: Các báo cáo về đánh giá đa hình gene GHRH, Mc4R, C8 với tương quan đến tốc độ tăng trưởng, chất lượng thịt, tính kháng bệnh của heo rừng thuần và heo rừng lai và báo cáo về chỉ thị ADN của các giống bò lai có tương quan chất lượng thịt.
Đề tài đã xây dựng được 03 mô hình trang trại nuôi heo rừng thuần, nuôi heo rừng lai thương phẩm kiêm hệ thống nhà hàng tiêu thụ sản phẩm tại Đắk Nông với số lượng heo rừng thuần 38 con và trên 100 con heo nái lai; 04 mô hình nuôi bò sữa nông hộ tại Đức Trọng, Lâm Đồng; 11 mô hình trang trại nuôi bò lai hướng thịt của các đồn biên phòng thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng và 05 mô hình nông hộ nuôi bò lai hướng thịt tại các huyện biên giới, tỉnh Đắk Nông. Thêm vào đó, đề tài đã xây dựng được 01 thương hiệu thịt heo rừng Tây Nguyên.
Chuyển giao bò lai Brahman cho Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Đắk Nông
Đặc biệt, đây lần đầu tiên ở Việt Nam một đề tài khoa học đã tiến hành thả 20 heo rừng hoang dã có gắn chíp theo dõi về lại tự nhiên tại Vườn Quốc gia Bidoup Núi Bà và khu 268 ha do Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng quản lý. Đây là điểm nổi bật của hướng nghiên cứu trên đối tượng hoang dã, đã mang lại những tác động to lớn trong việc phục hồi quần thể heo rừng, giúp duy trì tính đa dạng của rừng Tây Nguyên.
Thả heo vào rừng có gắn chip theo dõi tại Vườn Quốc gia Bidoup - Núi Bà
Bên cạnh đó, đề tài đã công bố 08 bài tạp chí khoa học, trong đó có: 04 bài tạp chí quốc tế (01 bài thuộc danh mục SCI, Q1 và 03 bài có chỉ số ISSN) , 04 bài tạp chí trong nước; góp phần đào tạo 03 Tiến sỹ, 07 kỹ thuật viên lành nghề có khả năng tiếp tục triển khai các hoạt động của đề tài tại địa phương tham gia thực hiện đề tài và xuất bản 01 sách chuyên khảo. Đề tài cũng đã tham gia 1 hội thảo khoa học quốc gia (bài đăng có chỉ số ISSN) và đã tổ chức một hội thảo khoa học trong khuôn khổ thực hiện đề tài.
Kết thúc buổi nghiệm thu, Hội đồng khoa học và Ban Chủ nhiệm Chương trình đánh giá đây là một đề tài nghiên cứu vừa có giá trị khoa học vừa có giá trị thực tiễn, tạo ra chuỗi giá trịt từ nghiên cứu đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Từ đề tài này đã nâng cao năng lực nghiên cứu cho Viện Sinh học nhiệt đới và Viện Nghiên cứu khoa học Tây Nguyên từ nguồn nhân lực trình độ cao, việc đầu tư thêm trang thiết bị, mở ra định hướng nghiên cứu mới. Nguồn gen quý của heo rừng Tây Nguyên được bảo quản và lưu trữ tại Viện Sinh học nhiệt đới như các mẫu mô tai, tinh, phôi,… rất có ý nghĩa trong việc bảo tồn nguồn gen động vật hoang dã, quý hiếm. Việc chuyển giao bò lai Brahman, heo rừng lai cho các hộ dân biên giới và các đồn biên phòng tỉnh Đắk Nông vừa góp phần phát triển kinh tế vừa góp phần ổn định an ninh quốc phòng cho vùng biên giới Việt Nam - Campuchia. Đề tài đã được Hội đồng KHCNCNN nghiệm thu và đánh giá xếp loại “Đạt”.